Tên gọi: Núc nác.
Tên gọi khác: Bạch ngọc nhi, Nam hoàng bá, ngúc ngác, mộc hồ điệp, may ca…..
Tên khoa học: Oroxylum indicum (L.) Kurz
Họ: Hoa chùm ớt (Bignoniaceae)
I. Đặc điểm của “Núc nác”
- Cây nhỡ, cao 8-10 m, có khi hơn. Thân nhẵn, ít phân cành, có những sẹo to do lá rụng để lại, vỏ cây màu xám tro, mặt trong màu vàng nhạt.
- Lá to, mọc đối, xẻ 2-3 lần lông chim, dài đến 1.5 m, tập trung ở ngọn thân, lá chét hình bầu dục, nguyên, dài 6.5 – 14 cm, rộng 3.5 – 8 cm; gốc tròn, hơi lệch, đầu nhọn, mặt dưới nhẵn hoặc hơi có lông; cuống lá kép hình trụ, mập.
- Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành chùm, cuống mập, thẳng, dài 40 – 80 cm, mang nhiều sẹo rõ ở phía dưới; lá bắc nhỏ; hoa to màu nâu đỏ sẫm; dài hình chuông; hơi phình ở bọng, 5 cánh hoa hàn liền chia 2 môi, mép nhăn nheo có răng cưa, cong gập xuống; nhị 5 (4 cái đều và 1 cái hơi ngắn hơn), chỉ nhị có lông mịn ở gốc, bầu thuôn, dài.
- Quả nang, dẹt và cong, dài 50 – 80 cm, rộng 5 – 7 cm, khi chín nứt làm 2 mảnh; hạt rất nhiều hình bầu dục, cứng, có cánh mỏng bao quanh.
- Mùa hoa: tháng 5 – 7; mùa quả: tháng 8 – 10
II. Thành phần hóa học
- Vỏ thân Núc nác chứa một ít ancaloit, tanin và một số dẫn xuất flavonoit ở dạng tự do hay heterozit. Những chất flavonoit thường thấy là: Oroxylin A, Baicalein, Crysin, Tetuin.
- Hạt Núc nác có chứa một chất kiềm màu vàng, một chất dầu béo chứa 80.4% axit oleic, các axit panmitic, stearic, và có thể cả axit lignoxeric. Ngoài ra, hạt có chứa ellagic axit.
- Vỏ rễ chứa chrysin, baicalein, biochanin-A, và acid ellagic. Oroxylin A, chrysin, triterpene axit cacboxylic và axit ursolic được tìm thấy trong vỏ quả (Suratwadee et al 2002).
III. “Núc nác” có tác dụng gì?
- Theo y học cổ truyền
- Vỏ thân núc nác có vị đắng, tính hàn, quy vào kinh bàng quang và tỳ. Do đó, dược liệu này có công dụng thanh nhiệt, sát trùng, tiêu độc, chỉ khái, chỉ thống.
- Vỏ núc nác được dùng để chữa tiêu chảy, kiết lỵ, đau dạ dày, viêm nhiễm đường tiết niệu, tiểu buốt, tiểu ra máu, ho, viêm họng. Ngoài ra, vỏ núc nác còn có thể chữa dị ứng và các bệnh ngoài da (mẩn ngứa, ban, sởi…) và dùng làm thuốc bổ.
- Trong dân gian, người ta dùng vỏ núc nác (còn gọi là hoàng bá nam) thay cho vị thuốc hoàng bá thực (vỏ thân phơi khô của cây hoàng bá Phellodendron amurense Rupr, thuộc họ Cam Rutaceae).
- Theo y học hiện đại
- Năm 1965, tại Viện nghiên cứu hoạt chất sinh vật của chi nhánh Siberia Viện hàn lâm khoa học Liên Xô cũ, dựa trên kết quả lâm sàng dùng vỏ núc nác chữa dị ứng của bệnh viện Việt – Tiệp Hải Phòng, các nhà khoa học I. I Brekhman và P.P. Gôlicôv đã tiến hành các thí nghiệm trên vỏ cây núc nác Việt Nam và đưa đến các kết luận:
- Vỏ núc nác cho thấy rõ tác dụng chống dị ứng.
- Núc nác tăng sức đề kháng của cơ thể đối với một số tác nhân bất lợi bên ngoài.
- Vỏ núc nác có độc tính rất thấp, LD50 ở chuột nhắt trắng là 23ml dịch chiết vỏ núc nác 100% trên 1kg thể trọng.
- Núc nác làm giảm tính thấm của mạch máu ở chuột đã được gây mẫn cảm bằng lòng trắng và không thấy tác dụng này ở chuột được gây mẫn cảm bằng huyết thanh ngựa trộn với dầu parafin.
- Tại vị trí tiêm trong da formaldehyde và histamin, tính thấm của mạch máu giảm do ảnh hưởng của vỏ thân núc nác. Tính thấm mạch máu không giảm khi gây viêm bằng xylen.
- Núc nác không ảnh hưởng đáng kể tới sự phát triển của hiện tượng Actuýt Sakharôv, nhưng thỏ đã được gây mẫn cảm hồi phục nhanh hơn thỏ đối chứng.
- Núc nác làm giảm vết sưng phồng do lòng trắng trứng gây ra. Sau khi cắt bỏ tuyến thượng thận, tác dụng ức chế giai đoạn cấp của phản ứng viêm của núc nác vẫn còn tồn tại. Tác dụng kháng viêm ở động vật đã được gây mẫn cảm mạnh hơn ở động vật không gây mẫn cảm.
IV. Các bài thuốc có “Núc nác”
- Chữa táo bón:
Sắc uống mỗi ngày một lượng bằng nhau vỏ núc nác và lá cối xay.
- Chữa ngộ độc thịt thú vật:
Sắc uống vỏ núc nác hoặc nghiền thành bột rồi uống.
- Chữa lở loét do cây sơn:
Giã nát vỏ núc nác tươi, ngâm trong khoảng 2 – 3 giờ theo tỷ lệ 1 phần vỏ núc nác và 3 phần rượu 30 – 40%. Dùng rượu đã ngâm bôi vào vết lở loét 3 – 4 lần/ngày trong 2 – 3 ngày là khỏi.
Nghiền thành bột mịn các dược liệu sau: 20g vỏ núc nác, 15g hoạt thạch, 25g thanh đại, 20g thạch cao sống. Trộn đều hỗn hợp bột trên với dầu vừng và bôi vào vết loét. Nếu vết loét chảy nước nhiều thì cho thêm ít bột mai mực vào.
- Chữa bong gân, trật khớp:
Giã nát các vị thuốc sau rồi sao lên và chườm: Vỏ núc nác, vỏ sồi, lá canh châu, lá đau xương, lá tầm gửi cây khế, lá bưởi bung, lá thầu dầu tía, lá náng, lá kim cang, lá mua, quế, hồi hương, đinh hương, nghệ, gừng sống, hạt chấp, hạt máu chó, mủ xương rồng bà, huyết giác. Thay lá đau xương bằng giấm nếu sưng cơ.
- Chữa thấp khớp, sưng đau khớp (chống chỉ định ở phụ nữ có thai):
Nguyên liệu: Vỏ núc nác, dây đau xương, cây vòi voi, phòng kỷ, rễ bưởi bung, ngũ gia bì chân chim, độc lực, rễ cỏ xước, kê huyết đằng, rễ trinh nữ, thiên niên kiện, quế chi, độc hoạt.
Phơi khô và sao vàng các dược liệu trên (trừ quế chi, thiên niên kiện, độc hoạt không sao). Cho nước ngập dược liệu 20cm rồi sắc 2 lần (lần đầu sắc 6 giờ, lần sau 3 giờ). Hòa 2 nước lại, lọc rồi tiếp tục sắc, đến trước khi sắc xong 40 phút thì cho quế, thiên niên kiện và độc hoạt vào. Cô đến tỷ lệ 1:1 rồi tiến hành pha cao với siro đơn với tỉ lệ 10%. Uống 200 – 250ml/ngày, chia làm 2 lần.
- Chữa mẩn ngứa:
Sắc lấy nước uống 20g mỗi vị sau: Vỏ núc nác, lá chàm, dây vàng giang, thạch cao.
- Chữa lở loét, tổ đỉa, giang mai:
Sắc uống hàng ngày 30g mỗi vị: Vỏ núc nác và khúc khắc.
Tán các dược liệu theo liều lượng sau thành bột rồi vo viên: 30g vỏ núc nác, 30g khổ sâm, 50g quả ké, 50g thổ phục linh, 50g hạ khô thảo, 15g hạt dành dành, 20g sinh địa. Uống 20 – 25g/ngày.
- Chữa lở loét gây ngứa, chảy nước vàng:
Nấu 100g vỏ núc nác và 50g hạt xà sàng với nước rồi xông rửa 1 lần/ngày, dùng trong 3 – 4 ngày.
- Chữa mụn nhọt, ghẻ lở, mẩn ngứa, mày đay, viêm nhiễm:
Sắc 2 lần các dược liệu sau, chia thành nhiều lần uống mỗi ngày, trong vòng 5 – 7 ngày: 13g vỏ núc nác (có thể thay bằng 15g thổ phục linh hoặc 13g vỏ gạo), 20g sinh địa, 20g kim ngân, 15g ké đầu ngựa, 15g cam thảo dây, 50g sài đất.
Chữa eczema bội nhiễm gây chảy nước vàng:
Nấu các dược liệu sau thành cao đặc rồi bôi lên vùng tổn thương: Vỏ núc nác, sài đất, sâm đại hành.
- Chữa sốt xuất huyết kèm mẩn ngứa:
Giã nát các dược liệu tươi theo liều lượng sau: 20g vỏ núc nác, 20g hoa mã đề, 30g rau má, 30g cỏ nhọ nồi. Sau đó thêm nước dùng lọc uống hoặc sắc uống.
- Chữa viêm nhiễm đường tiết niệu, tiểu buốt, tiểu khó, tiểu ra máu:
Sắc mỗi loại 1 nắm, dùng uống: Vỏ núc nác, rễ cỏ tranh, mã đề.
Sắc uống 1 thang mỗi ngày: 12g vỏ núc nác, 12g thạch hộc, 12g quả dành dành, 20g rau má, 4g nhục quế. Nếu nặng có thể tăng lên 2 thang/ngày.
- Chữa liệt dương do sỏi lâu ngày ở đường tiết niệu:
Sắc uống 1 thang mỗi ngày: Vỏ núc nác, hà thủ ô, ý dĩ, mạch môn, kỷ tử, thục địa, huyết đằng 12g mỗi vị; trâu cổ, phá cố chỉ, 8g mỗi vị.
- Chữa bệnh trĩ:
Sắc các dược liệu sau, lấy 300 – 400ml rồi dùng ngâm hậu môn mỗi ngày: 12g vỏ núc nác, 12g hoa kinh giới, 12g ngũ bội tử, 4g phèn phi.
- Phối hợp cấp cứu ngoại khoa để chữa bỏng:
Sắc uống 1 thang mỗi ngày: 12g vỏ núc nác, 20g bồ công anh, 8g chi tử; kim ngân hoa, hoàng liên, sinh địa, thạch hộc, mạch môn, 16g mỗi vị.
V. Lưu ý trước khi sử dụng “Núc nác“
- Có thể thấy cây núc nác thực sự có rất nhiều công dụng. Chính vì thế mà nhiều bài thuốc từ cây núc nác đến hiện tại cũng được nhiều người tin dùng. Để đảm bảo được an toàn cho bản thân khi sử dụng bài thuốc từ cây núc nác, người bệnh hỏi bác sĩ trước khi sử dụng.