Tên gọi: Gấc.
Tên gọi khác: Mộc miết tử, mộc miên quả.
Tên khoa học: Semen Momordicae.
Họ: Bầu bí (Cucurbitaceae).
I. Đặc điểm của “Gấc”
- Gấc là loài cây thân thảo dây leo thuộc chi Mướp đắng. Đây là một loại cây đơn tính khác gốc, tức là có cây cái và cây đực riêng biệt. Cây gấc leo khỏe, chiều dài có thể mọc đến 15 mét. Thân dây có tiết diện góc. Lá gấc nhẵn, thùy hình chân vịt phân ra từ 3 đến 5 dẻ, dài 8-18 cm. Hoa có hai loại: hoa cái và hoa đực. Cả hai có cánh hoa sắc vàng nhạt. Quả hình tròn, màu lá cây, khi chín chuyển sang màu đỏ cam, đường kính 15–20 cm. Vỏ gấc có gai rậm. Bổ ra mỗi quả thường có sáu múi. Thịt gấc màu đỏ cam. Hạt gấc màu nâu thẫm, hình dẹp, có khía. Gấc trổ hoa mùa hè sang mùa thu, đến mùa đông mới chín. Mỗi năm gấc chỉ thu hoạch được một mùa. Do vụ thu hoạch tương đối ngắn (vào khoảng tháng 12 hay tháng 1), nên gấc ít phổ biến hơn các loại quả khác.
- Quả gấc thu hoạch khoảng tháng 12 hay tháng 1. Thu hái quả gấc chín lấy cùi nấu xôi, lấy hạt phơi khô để dùng.
II. Thành phần hóa học
- Nhân hạt Gấc có khoảng 6% nước, 8,9% chất vô cơ 55,3% acid béo 16,5% protein, 2,9% đường. 1,8% tanin, 2,8% cellulose elacostearic, còn có acid amin, alcol. Dầu gấc chứa acid oleic vv…
- Gấc chứa một chất dầu màu đỏ mà thành phần chủ yếu là b-caroten và lycopen là những tiền sinh tố A khi vào cơ thể sẽ biến thành vitamin A, lượng b-caroten của Gấc cao gấp đôi của Cà rốt.
- Thân củ chứa chondrillasterol, cucurbitadienol, 1 glycoprotein và 2 glycosid có tác dụng hạ huyết áp.
- Rễ chứa momordin một saponin triterpenoid; các chiết xuất cồn có sterol, bessisterol tương đương với spinasterol.
III. “Mộc miết tử” có tác dụng gì?
Tính vị: Nhân hạt gấc vị đắng, hơi ngọt, tính ấm, có độc.
Quy kinh: Vào Can, Tỳ.
Tác dụng: Hoạt huyết, hóa ứ tiêu sưng, sang thương.
Chủ trị: Ngâm rượu xoa bóp trị nhức mỏi gân xương, chấn thương ứ huyết, giã đắp sưng vú, tắc tia sữa, trĩ, ngâm giấm trị quai bị vv…
IV. Các bài thuốc có “Gấc”
- Chữa trĩ, lòi dom:
- Hạt gấc giã nát,thêm một ít giấm thanh, gói bằng vải đắp vào hậu môn để suốt đêm.Sau mỗi đêm lại thay thuốc một lần.
- Chữa chai chân:
- Nhân hạt gấc,giữ cả màng hạt,đem giã nát thêm một ít rượu trắng 35-40 độ,bọc trong một cái túi polyethylen,dán kín miệng túi,đục một lỗ nhỏ rộng gần bằng chỗ chai chân,buộc vào nơi tổn thương ,2 ngày thay thuốc một lần.
- Dùng hạt gấc chữa sang chấn đụng giập trong những trường hợp bị ngã, chấn thương, tụ máu…:
- Dùng hạt gấc đốt vỏ ngoài cháy thành than (nhân bên trong chỉ vàng chưa cháy thành than),cho vào cối giã nhỏ, cứ khoảng 30-40 hạt thì cho 400-500 ml rượu trắng vào ngâm để dự trữ dùng dần.
V. Lưu ý trước khi sử dụng “Mộc miết tử“
- Nhân hạt gấc còn gọi là Phiên mộc miết, theo Đông y có tính rất lạnh, ăn phải thì cấm khẩu nguy hiểm.