Tên gọi: Nhục Quế.
Tên gọi khác: Quế đơn, Quế bì, Nhục quế, Mạy quẻ (dân tộc Tày), Kía (dân tộc Dao), Quế thanh,…
Tên khoa học: Cinnamomum cassia Nees & Eberth.
Họ: Long não – Lauraceae.
I. Đặc điểm của Nhục Quế
- Quế là cây thân gỗ, cao khoảng 15 – 20 m. Thân thon, màu xanh có nhiều khía dọc và lông mịn, thân già màu xám đen có nhiều nốt sần. Toàn thân cây quế có mùi thơm.
- Lá đơn mọc cách, các lá ở gần ngọn cây mọc đối, không có lá kèm. Phiến lá hình bầu dục, kích thước khoảng 20 – 25 cm, rộng khoảng 8 – 9 cm, đầu và gốc lá đều nhọn. Lá cứng giòn, mặt trên bóng, màu xanh đậm hơn mặt dưới, mép lá nguyên. Lá có 3 gân chính bao gồm một gân giữa to và 2 gân nhỏ, nổi rõ ràng. Cuống lá phẳng, màu xanh hơi xám, dài khoảng 2 – 2.5 cm.
- Hoa quế xim, 2 ngã tụ thành chùm, mọc ở các nách lá hoặc ngọn cành, cuống cụm hoa hình trụ dài khoảng 10 – 12 cm, màu xanh, trên phủ nhiều lông mịn. Hoa màu vàng nhạt, mùi thơm, hoa rải rác quanh năm, nhưng thường tập trung vào mùa thu. Quả có hình cầu, đường kính khoảng 2 – 3 mm, màu xanh, nằm trên một đấu nguyên.
- Mùa hoa thường vào tháng 4 – 8. quả vào tháng 10 – 12 hoặc tháng 1 – 2 năm sau.
II. Thành phần hóa học
Thành phần chủ yếu trong Quế nhục là tinh dầu bay hơi. Thành phần chính của tinh dầu là Cinnamaldehyde chiếm 75 – 90%, Phenyl Propyl Acetate Tannin và Cynnamyl Acetate.
Ngoài tinh dầu, trong vỏ quế cũng có chứa:
- Chất nhựa
- Calci Oxalat
- Chất nhầy
- Coumarin
- Tanin
- Đường
III. Nhục Quế có tác dụng gì?
Theo y học hiện đại:
- Tác dụng ức chế trung khu thần kinh, giảm đau, giải nhiệt, an thần, chống co giật.
- Tác dụng chống kích thích nhẹ dạ dày và ruột, tăng tiết nước bọt, dịch vị, tăng cường hệ thống tiêu hóa, làm giảm co thắt cơ trơn nội tạng, làm giảm các cơn đau bụng do co thắt ruột.
- Tác dụng lên hệ thống tim mạch, tăng lưu lượng máu lên động mạch tim và cải thiện tình trạng thiếu máu cơ tim.
- Tác dụng kháng khuẩn với nhiều loại vi khuẩn gram + và gram -, ức chế sự chế sự hoạt động của các loại nấm mốc.
Theo y học cổ truyền:
- Lợi can phế khí
- Bổ mệnh môn hỏa
- Tán hàn, ôn tỳ, chỉ thống, làm ấm khí huyết
- Bổ nguyên dương, tiêu ấm, tráng dương mệnh môn
IV. Các bài thuốc có Nhục Quế
1. Trị đau bụng tiêu chảy kéo dài do thận dương hư, tỳ vị hư hàn hoặc tỳ thận dương hư:
- Tam khí đơn: Nhục quế 3 g, Lưu hoàng 3 g, Hắc phụ tử 10 g, Can khương 3 g, Chu sa 2 g, chế thành viên, mỗi lần uống 3 g ngày 2 lần với nước sôi ấm. Trị chứng nôn ỉa nhiều, quyết nghịch hư thoát.
- Quế linh hoàn: Nhục quế 3g, Mộc hương 3 g, Can khương 5 g, Nhục đậu khấu, Chế phụ tử đều 9 g, Đinh hương 3 g, Phục linh 9 g, chế thành hoàn mỗi lần uống 8 g, ngày 2 – 3 lần với nước ấm. Trị đau bụng tiêu chảy do tỳ thận dương hư.
2. Trị viêm thận mạn, phù thũng do dương khí hư chân tay lạnh, tiểu ít chân phù:
- Tế sinh Thận khí hoàn (Tế sinh phương): Can địa hoàng 15 g, Sơn dược 12 g, Sơn thù 6 g, Phục linh, Đơn bì, Trạch tả đều 12 g, Nhục quế 4 g, Phụ tử 10 g, Xuyên Ngưu tất 12 g, Xa tiền tử 15 g, luyện mật làm hoàn. Mỗi lần uống 15 g, ngày uống 2 – 3 lần.
3. Trị chứng bụng đau, phụ nữ có kinh đau bụng do hư hàn:
- Nhục quế tán bột mịn, mỗi lần uống 3 – 4 g với nước ấm hoặc rượu càng tốt.
- Lý âm tiễn: Thục địa 16 g, Đương qui 12 g, Nhục quế 5 g, Can khương 5 g, Cam thảo 4 g, sắc uống. Trị phụ nữ đau bụng kinh.
4. Trị đau thắt lưng:
- Châu Quảng Minh dùng bột Nhục quế trị đau lưng do thận dương hư 102 ca, gồm có viêm cột sống do phong thấp, viêm cột sống dạng thấp, đau do chấn thương và đau lưng chưa rõ nguyên nhân. Mỗi lần uống 5 g ngày 2 lần, liệu trình 3 tuần. Tỷ lệ có kết quả 98 %. Những ca có xương tăng sinh chụp lại X quang đều không thay đổi nhưng đau giảm hoặc hết. Uống thuốc có tác dụng phụ là khô mồm, táo bón (Tạp chí Trung tây y kết hợp 1984, 2:115).
5. Trị vảy nến, mề đay:
- Truyền thế Trân dùng chất chiết xuất của Nhục quế trị 19 ca vẩy nến và 23 ca mề đay, mỗi lần uống 25 – 50 mg (1 – 2 viên) ngày uống 3 lần, đối với vẩy nến uống liên tục 4 – 8 tuần, mề đay sau khi hết uống tiếp 5 -14 ngày. Kết quả:
- Vẩy nến 19 ca khỏi 7 ca, kết quả tốt 2 ca, tiến bộ 7 ca, không kết quả 3 ca, tỷ lệ kết quả 84,1 %.
- Mề đay 23 ca, khỏi 11 ca, tốt 9 ca, tiến bộ 1 ca, không kết quả 2 ca, tỷ lệ kết quả 91,2 % (Học báo Y học viện Hà nam 1981, 2:385).
6. Trị nhiễm độc phụ tử:
- Theo kinh nghiệm dân gian, tác giả đã dùng Nhục quế trị nhiễm độc Phụ tử cấp. Dùng Nhục quế 5 – 10 g ngâm nước uống, sau khi uống 5 – 15 phút, bệnh nhân nôn, sau 15 – 30 phút các triệu chứng giảm. Nếu không giảm tiếp tục uống 3 – 5 g cách uống như trên. Theo báo cáo của bệnh nhân, sau khi uống thuốc 15 – 30 phút, có cảm giác tim đập mạnh hơn, chân tay ấm lại, cảm giác tê ở môi lưỡi và chân tay giảm dần (Báo Tân Trung y 1987, 5:53).
V. Lưu ý trước khi sử dụng Nhục Quế
- Người âm hư hỏa vượng không dùng.
- Phụ nữ có thai nên thận trọng trao đổi với bác sĩ chuyên môn trước khi sử dụng.
- Không sắc kết hợp Quế nhục với Xích thạch chỉ. Khi sắc chung, Xích thạch chỉ có thể khiến thành phần hữu cơ của Quế nhục giảm. Do đó, nếu cần kết hợp 2 vị thuốc cần sắc trước Xích thạch chỉ, bỏ bã, lại cho Nhục quế vào. Hoặc có thể sắc riêng 2 vị thuốc sau đó hoàn trộn, dùng uống.
- Dùng lâu với liều cao có thể dẫn đến nhức đầu, táo bón.
- Quế nhục vị cay ngọt, tính nhiệt, có chứa độc tố nhẹ. Do đó, khi cần sử dụng vị thuốc Nhục quế cần trao đổi với thầy thuốc chuyên môn hoặc người có chuyên môn để được hướng dẫn cụ thể.